Vua Tự Đức thuở đường thời giỏi về thi phú, khi lên ngôi vua ông luôn canh cánh xây dựng cho mình ngôi mộ để xứng đáng với quyền uy. Cuối cùng, ông chọn xây dựng mộ tại Tổng Cư Chánh, kể từ đây quá trình xây dựng bắt đầu.
Gần 50 công trình được xây dựng trong lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm trong tên gọi, giờ đây phủ lên những hàng rêu phong đậm nét cổ kính.
Khi bước vào Lăng, cảnh đầu tiên chính là Vũ Khiêm Tạ và Xuân Khiêm Tạ hướng nhìn ra hòn non bộ với non nước hữu tình. Đây là một bến thuyền dành cho nhà vua khi ngao du thưởng cảnh ở hồ Lưu Khiêm. Vũ Khiêm Tạ dành cho vua bước lên bến thuyền qua hòn non bộ, bên hòn non bộ nuôi rất nhiều thú cưng. Còn bên kia gọi là Xuân Khiêm Tạ vào buổi đêm buồn buồn vua qua đó hát và làm thơ ngắm trăng. Tại đây sẽ có biểu diễn đàn ca nhã nhạc cung đình huế.
Khu vực Khiêm Cung môn, nơi thờ vua và cũng là nơi vua hay nghĩ ngơi va làm việc. Khiêm Cung môn có 2 lầu, hay còn gọi là cổng Tam quan, bước qua cổng Tam quan là vào Tổng Cung, giữa vua đi, 2 bên là quan văn võ, trên lầu nơi vua ngắm trăng, ngắm toàn bộ tẩm điệm của mình.
Tứ bề núi phủ mây phong,
Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn Niên
Hai tòa nhà đối xứng hai bên gọi là Lễ Khiêm vu và Pháp Khiêm vu, nơi quan văn quan võ chầu vua khi vua làm việc ở đây. Nhìn chung khiến trúc lăng tẩm rất giống nhau, phía trên còn có Hồ Lô Không được gọi là Lưỡng Long Chầu vò rượu.
Điện Hòa Khiêm là nơi đặt bài vị của Vua Tự Đức, cũng là nơi vua hay nghĩ ngơi. Ngoài các dãi hành lang có tên gọi là Khiêm Lăng, được xây dựng trong vòng 3 năm, từ thuở sơ khai có tên Vạn Niên Cơ, có hơn 6.000 người tham gia xây dựng công trình này, lòng dân oán than nên có câu:
Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân.
Đoàn Hữu Trung khởi nghĩa nhưng thất bại, người ta gọi là loạn Chày vôi. Sau khi dẹp yên cuộc khởi nghĩa, Vạn Niên Cơ được đổi tên thành Khiêm Lăng. Điều này có một ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Bởi trong chế độ phong kiến. Vua- hay gọi là thiên tử tức là con trời. Nên vua thì không bao giờ nhận sai trước quần thần hay người dân. Nhưng vua Tự Đức đã dũng cảm nhìn nhận những khuyết điểm của bản thân, Cái tên Khiêm Lăng như một sự tự nhủ về sự khiêm cung, cúi mình của nhà vua. Nhiều công trình về sau trong thời trị vì của vị vua này cũng có chữ Khiêm đứng đầu như Khiêm cung, Điện Đòa Khiêm, Điện Lương Khiêm, …
Chí Khiêm đường nơi thờ bài vị các phi tần của Vua Tự Đức.
Vua Tự Đức có 103 bà vợ những không có con vì một căn bệnh. Vì không có con nối dõi nên vua bị coi là bất hiếu. Tuy nhiên, Vua Tự Đức là người con hiếu thảo nhất trong các vị vua thời Nguyễn, mẹ của vua chính là Hoàng thái hậu Từ Dũ.
Ở phía sau là Minh Khiêm Đường, nhà hát cổ nhất, hàng ghế dưới này của quan văn võ, phía trên kaf khu vực vua ngồi.
Khu vực quan trọng chính là lăng tẩm của vua. Ra khỏi khu vực tẩm điện, là con đường quanh co dẫn sang khu lăng mộ.Ở đó có những bức điêu khắc quan văn võ chầu được làm bằng đá.
Đi vào bên trong là khu Khiêm Cung Ký. Một trong những công trình vững chải nhất. Toàn bài văn dài 4.935 chữ, là một bản tự thuật của nhà vua về cuộc đời, vương nghiệp cũng như những rủi ro, bệnh tật của mình. Ông tự nhận tội mình: “Không sáng suốt trong việc biết người, ấy là của ta; dùng người không đúng chỗ, cũng là tội của ta; hàng trăm việc không làm được, đều là tội của ta cả...” và ông nhường cho sử sách đời sau đánh giá công, tội của mình.
Vua Tự Đức là người uyên thâm về học vấn phương Đông, sử học, một vị vua tài ba khi ông để lại hơn 4.000 bài thơ chữ hán, 100 bài thơ chữ nôm. Đó là một di sản lớn với thế hệ chúng ta.
Mời các bạn xem clip trên kênh Bỏng Ngô Mario: